Vẹn nguyên ký ức hào hùng
49 năm (24/4/1972-24/4/2021) đã đi qua, nhưng ký ức hào hùng của chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh vẫn mãi là niềm tự hào của những người lính như ông Lê Việt Hùng (nguyên chiến sĩ quân y thuộc Phòng Hậu cần, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh) đã từng tham gia phục vụ, chiến đấu ở mặt trận Bắc Tây Nguyên năm xưa.
Quán triệt Nghị quyết số 219-NQ/TW ngày 4/4/1972 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 về nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ kinh tế năm 1972, bằng mệnh lệnh cả khối óc và trái tim “quyết chiến, quyết thắng”, Quân ủy Trung ương đã mở chiến dịch tấn công chiến lược trên toàn miền Nam, trong đó giao nhiệm vụ quan trọng cho Mặt trận Tây Nguyên (Mặt trận B3) mở đầu chiến dịch ở Tây Nguyên là: “Tiêu diệt địch, giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh, có điều kiện thì giải phóng thị xã Kon Tum...”.
Để tạo điều kiện cho Tây Nguyên hoàn thành thắng lợi chiến dịch trên, tháng 2/1972, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) thành lập Sở Chỉ huy tiền phương đứng chân ở phía Đông Đăk Tô - Tân Cảnh (gọi tắt là Mặt trận cánh Đông). Căn cứ Tân Cảnh (Căn cứ E42) là trung tâm chỉ huy tập đoàn phòng ngự phía Bắc Kon Tum của địch, vừa là căn cứ hậu cần ở Bắc Tây Nguyên, vừa là nơi xuất phát hành quân của chúng ra khu vực ngã ba biên giới. Lực lượng của địch ở căn cứ này gồm Sở chỉ huy Sư đoàn 22, khu cố vấn Mỹ, Sở chỉ huy Trung đoàn 42, Sở chỉ huy Trung đoàn 14 thiết giáp, Tiểu đoàn xe tăng M-41, Tiểu đoàn pháo…
Theo lời kể của ông Lê Việt Hùng, lúc ấy, ông làm nhiệm vụ quân y trong Đội phẫu tiền phương cấp cứu, chữa trị cho thương binh, thuộc Phòng Hậu cần -Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kon Tum (trước năm 1968, ông là chiến sĩ quân y thuộc Tiểu đoàn 304) và được đơn vị cử đi học nghiệp vụ tại Trường Quân Y B3 Tây Nguyên đóng quân tại tỉnh Attapư (Lào). Đến đầu năm 1972, ông được lệnh của đơn vị trở về căn cứ Bệnh xá 160 đóng tại xã Ngọc Réo (huyện Đăk Hà ngày nay) để chuẩn bị bước vào phục vụ chiến dịch Bắc Tây Nguyên.
|
Về đơn vị, ban ngày, ông hỗ trợ các lực lượng vũ trang đi dọc từng con suối, bìa rừng để nắm bắt thông tin của địch dọc Quốc lộ 14, đến làm giao liên thông tin, vận chuyển và cất giữ lương thực phòng bị. Đêm về, ông lại cùng anh em chiến sĩ trao đổi nghiệp vụ quân y, tập luyện quân sự sẵn sàng hành quân, hỗ trợ các lực lượng vũ trang ngoài nhiệm vụ chính là cấp cứu, chữa bệnh cho cán bộ, chiến sĩ ở tuyến sau.
Tự hào tuổi trẻ đôi mươi phục vụ vì sự nghiệp Tổ quốc, ông Hùng chia sẻ: Ngày đó, những người lính như chúng tôi đi bộ, trèo đèo, lội suối 5 - 6 tiếng/ngày là chuyện bình thường. Cuộc sống người lính thiếu thốn vô cùng và luôn đối mặt với hiểm nguy, thế nhưng, toàn quân trước giờ xuất phát làm nhiệm vụ luôn quyết tâm hô vang khẩu hiệu “quyết chiến, quyết thắng”, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập của Tổ quốc. Nhờ đó, chúng tôi đã làm cho “Trường Sơn chuyển mình, Pô Kô nổi sóng, quét sạch quân thù, giải phóng nhân dân” – như những trang sử vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam và lịch sử cách mạng, dân tộc Việt Nam đã lưu truyền đến hôm nay.
Nhớ lại tháng ngày chuẩn bị giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh, ông kể: Khi các lực lượng được lệnh triển khai công tác và chuẩn bị tấn công cứ điểm 42 của địch, chiều tối ngày 23/4/1972, ông và đồng đội bắt đầu hành quân từ rừng về dọc Quốc lộ 14, rồi kéo dài ngược lên phía chân đồi Sạc Ly. Trước đó, lực lượng trinh sát đã báo cáo căn cứ E42 được Mỹ, Ngụy phòng thủ rất kiên cố, được bảo vệ bằng 14 lớp hàng rào kẽm gai, nhiều lô cốt, hệ thống hầm ngầm, hệ thống vọng gác, chốt bảo vệ lớn, nhỏ… Trong đó, những điểm chốt lớn vừa là vọng gác, vừa là nơi đặt pháo 12,8 ly của địch, sẵn sàng nhả đạn khi phát hiện mục tiêu. Lính trinh sát được rèn luyện thể lực, tinh thần gan dạ, mưu trí, dũng cảm, sẵn sàng xả thân, song luôn phải đối mặt với hiểm nguy là sự phát hiện của địch bất cứ lúc nào và các loại mìn “jip”, mìn “nhảy”, mìn chống tăng của địch rải dày đặc ở căn cứ 42. Trải qua nhiều tháng ngày trinh sát, nắm bắt được thời gian, lực lượng và tình thế của địch, đêm 23, rạng ngày 24/4/1972, các tổ trinh sát và tiểu đoàn đặc công của Mặt trận B3 đã đánh mở đầu dồn dập, tiến vào căn cứ E42 của địch.
Theo ông Hùng, trận đánh diễn ra thần tốc, rất ác liệt. Máy bay của địch bay như chuồn chuồn, hết tốp này đến tốp khác quần thảo trên bầu trời. Các đơn vị chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy mặt trận, tổ chức đánh mạnh, đánh hiểm theo nhiệm vụ được giao, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chủ lực và lực lượng bộ đội tại chỗ. Nhiều chiến sĩ của ta đã chiến đấu anh dũng, bị thương trên tiền tuyến được lực lượng quân y hỗ trợ đưa về tuyến sau khẩn trương cầm máu, cấp cứu và băng bó. Quá trình làm nhiệm vụ, đôi lúc chúng tôi bất chấp mệnh lệnh, cũng xông pha lên tận tuyến trên trực tiếp đưa cáng thương đón anh em không may bị thương để kịp thời về lán trại cứu chữa. Rồi những đợt xông pha ấy, đã có không ít quân y cũng trúng đạn của địch, hy sinh ngay tại chiến trường. Còn với ông, mảnh bom, vỏ đạn bay lạc sát thương, nhưng tự mình xử lý. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, ta và địch giành nhau từng lô cốt, hầm ngầm, từng dãy công sự… Địch cho máy bay ném bom dữ dội xuống những vị trí chúng không còn giữ được nhằm ngăn chặn bước tiến của ta. Có nhiều thời điểm, đồng đội chiến đấu, bị thương mất máu quá nhiều, cần 1 lượng máu nhất định cứu sống họ. Những người lính quân y như ông sẵn sàng tiếp máu cho anh em, đồng đội ngay tại chỗ.
Qua hơn 10 tiếng đồng hồ quyết chiến, quân ta đã đánh bại toàn bộ lực lượng hùng hậu tương đương một sư đoàn của địch, làm chủ căn cứ E42 vào trưa 24/4/1972. Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh là chiến dịch đầu tiên, các lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên tiến công địch giành thắng lợi bằng hiệp đồng binh chủng trên quy mô lớn với tốc độ nhanh, giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta, đập tan hoàn toàn căn cứ Đăk Tô – Tân Cảnh, một căn cứ rất mạnh án ngữ phía Bắc Tây Nguyên, tiến tới giải phóng một vùng rộng lớn phía Bắc tỉnh Kon Tum, làm bàn đạp hết sức thuận lợi để chúng ta tiến tới giải phóng toàn bộ tỉnh Kon Tum, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam sau này.
Sau ngày giải phóng Đăk Tô – Tân Cảnh, ông Hùng tiếp tục công tác ở Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Kon Tum, tham gia giải phóng và xây dựng tỉnh cho đến ngày đất nước thống nhất năm 1975. Sau khi rời quân ngũ cho đến hôm nay, ở tuổi 75, ông tiếp tục cống hiến và sinh sống, xây dựng trên quê hương thứ 2 là thành phố Kon Tum. Hiện, ông là Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi thành phố Kon Tum, tiếp tục cùng các cấp ủy, chính quyền tuyên truyền và cổ vũ các tầng lớp nhân dân nối tiếp truyền thống anh hùng của dân tộc để vượt qua khó khăn, phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp hơn.
Mai Trâm